Yếu tố kỹ thuật là một trong các yếu tố quan trọng, dùng để lựa chọn đúng tay cơ, mâm đĩa than và cartridge, từ đó có thể tạo thành một bộ phối ghép hoàn chỉnh.
Việc khớp một mâm đĩa than, tay cơ và cartridge với nhau không chỉ xét về phương diện thẩm mỹ hay là về chất âm. Yếu tố kỹ thuật cũng đóng góp một phần không hề nhỏ.
Trước hết, tay cơ được lắp phải khớp với vùng lắp tay cơ trên mâm đĩa than. Rất nhiều mâm được trang bị sẵn armboard để lắp tay cơ và tay cơ sẽ được đặt cố định trên đó. Armboard này phải rộng ít nhất bằng đế lắp tay cơ, đồng thời giữ chắc tay cơ, không để nó bị lung lay. Bất cứ sự lung lay nào cũng sẽ khiến chất lượng âm thanh kém đi hẳn. Khi lắp tay cơ lên armboard, đầu lắp cartridge của tay cơ nên ở trong phạm vi mà từ đó, cartridge sẽ nằm trong đúng khoảng cách từ điểm trục xoay (pivot) của tay cơ gọi là overhang. Overhang có thể hiểu là khoảng cách từ đầu kim đến trục xoay mâm đĩa than (ở chính tâm mâm xoay) khi ba điểm tâm mâm xoay, trục xoay tay cơ và đầu kim nằm trên cùng đường thẳng. Để tính overhang, ta lấy khoảng cách từ điểm trục xoay tay cơ đến đầu kim trừ đi khoảng cách từ điểm trục xoay tay cơ đến trục xoay mâm. Khi điều chỉnh overhang, ta sẽ sử dụng bảng đo do nhà sản xuất cung cấp hoặc sử dụng một công cụ có tên là alignment protractor của bên thứ ba. Việc lựa chọn alignment protractor nào sẽ phụ thuộc vào tay cơ và cartridge đang được sử dụng.
Để dùng alignment protractor (chẳng hạn như của Stevenson, Baerwald hay Loefgren), ta sẽ làm theo các bước sau: Trước hết, đặt protractor lên mâm xoay, xỏ trục xoay mâm qua lỗ của protractor. Sau đó lần lượt di chuyển tay cơ sao cho đầu kim chạm đến 2 vị trí được đánh dấu trên protractor, kiểm tra xem đầu kim có đúng điểm đánh dấu và cantilever có song song với các đường thẳng bên cạnh hay không. Nếu không thì người dùng nới ốc và điều chỉnh lại cartridge để đầu kim đúng điểm đánh dấu và cantilever song song với ô lưới. Sau khi chỉnh xong, siết ốc chặt lại và kiểm tra thêm một lần nữa.
Hệ treo của mâm đĩa than bắt buộc phải có đủ độ cứng chắc để đỡ toàn bộ khối lượng của tay cơ. Nếu tay cơ quá nặng đối với hệ treo, mâm đĩa than sẽ không cân. Nhà sản xuất mâm đĩa than thường sẽ có quy định cụ thể về khối lượng giới hạn của tay cơ cho từng mẫu sản phẩm của mình.
Tiếp theo, khối lượng hiệu dụng (effective mass) của tay cơ phải khớp với độ thuận của cartridge (cartridge compliance). Hãy cùng xem lại định nghĩa của những khái niệm này để biết chúng tương tác với nhau như thế nào.
Khối lượng hiệu dụng của tay cơ không phải là khối lượng tổng thể của tay cơ mà là khối lượng tại một điểm trên tay cơ, nơi mà khối lượng được đặt vào. Chẳng hạn, nếu thêm 1 gram tại trục xoay thì sẽ gần như chẳng thêm gì vào khối lượng hiệu dụng của tay cơ. Nhưng nếu thêm 1 gram tại điểm đầu kim thì khối lượng hiệu dụng sẽ tăng thêm đúng 1 gram. Thông số khối lượng hiệu dụng cho biết lượng quán tính mà cartridge “cảm nhận được” khi nó di chuyển tay cơ, trong điều kiện đầu kim bị tác động bởi rãnh đĩa, lúc mà đầu kim, cartridge và tay cơ đang di chuyển dọc bề mặt đĩa. Một tay cơ có khối lượng hiệu dụng thấp hơn 10 gram sẽ gọi là tay cơ khối lượng thấp, từ 11 đến 20 gram gọi là tay cơ khối lượng trung và cao hơn 20 gram sẽ là tay cơ khối lượng lớn.
Cartridge compliance (độ thuận của cartridge) cho chúng ta biết hệ treo của cartridge sẽ giữ cantilever lỏng hay chặt như thế nào. Cantilever là một ống kim loại nhỏ nhô ra từ thân cartridge có vai trò giữ cố định đầu mũi kim. Nếu như cantilever có thể dễ dàng di chuyển, ta sẽ nói rằng cartridge này có độ thuận cao. Nếu như cantilever được lắp chắc chắn, khó dịch chuyển, như vậy cartridge này có độ thuận thấp.
Đô thuận thường được biểu thị dưới dạng con số, cho ta biết cantilever di chuyển bao xa khi có lực tác động vào. Cụ thể, lực được áp dụng ở đây thường là lực 10-6 dyne, khoảng cách di chuyển của cantilever đo bằng đơn vị phần triệu centimet sẽ được tính là độ thuận của cartridge. Chẳng hạn, một cartridge có độ thuận thấp (đồng nghĩa với việc hệ treo giữ cantilever rất chắc), khoảng cách di chuyển của cantilever là 10 phần triệu của 1 centimet. Ta sẽ nói rằng cartridge này có độ thuận 10. Vì phương pháp thể hiện độ thuận đã được chuẩn hóa, việc nhắc đến phần triệu của centimet là không cần thiết nên ta chỉ cần nói độ thuận 10 là đủ. Những cartridge có độ thuận tầm trung thường nằm trong khoảng từ 12 đến 20, trong khi cartridge có độ thuận cao sẽ là các giá trị lớn hơn 20.
(Hết kỳ 1)
Bạn có thể xem thêm phần khác tại đây
Hướng dẫn lựa chọn mâm đĩa than: Yếu tố kỹ thuật (phần 2)
Các bạn có thể tham khảo các sản phẩm khác tại đây
Những bộ cơ mâm đĩa than thường gặp hiện nay
Nguyễn Hào