Magico Q5 – chiếc loa động đầy đủ bốn dải tần, hiện đang là sản phẩm top đầu từ Berkeley và là cú hích tinh thần hơn bốn năm qua trong thế giới high end và trở thành cốt lõi cho những gì mà chúng tôi gọi là những thành phần đẳng cấp.
Dòng loa Magico Q5 không thuộc vào kiểu bạn sẽ yêu ngay từ lần đầu tiên nghe nó. Thật vậy, khi lần đầu tiên nghe nó ở CES 2010 tôi nghĩ rằng chúng rất chi tiết trong các âm tần trung và tần cao nhưng sự cân bằng tổng thể khá tốt và những âm bass không được mượt mà cho lắm. Vẫn bị mê hoặc bởi sự tuyệt vời của M5 (một dòng sản phẩm loa khác của Magico), tôi vẫn chưa hoàn toàn bị chinh phục cho đến khi tôi đến thăm văn phòng và nhà máy của Magico tại Berkeley, California vào cuối năm 2010 sau đó tận tại nghe Q5 bên cạnh những loa M5 yêu quý, mở lại các bản nhạc giống nhau qua cùng những chiếc ampli, pre-ampli và bộ nguồn. Tại đây, sự khác biệt giữa hai chiếc loa hoàn toàn không thể nhầm lẫn, và vô cùng ngạc nhiên, tôi hoàn toàn ủng hộ Q5 – những chiếc loa ít đắt đỏ hơn.
Tôi có thể nhanh chóng tổng kết lại sự khác biệt này. Về căn bản, những chiếc Q5 đã và đang có độ méo thấp hơn, độ phân giải cao hơn so với dòng loa M5. Tuy nhiên, để lý giải cho tính năng ưu việt đáng kinh ngạc của chúng thì sẽ cần mất chút thời gian.
Một trong những lý do cực kì rõ ràng mà có thể nhìn thấy ngay bằng mắt thường đó là thùng loa của dòng Q5. Nếu như dòng M5 sử dụng các hộp gỗ bạch dương Baltic dày 5cm, bề mặt bằng nhôm phẳng được xếp chồng lên nhau thì Magico Q5 lại sử dụng giảm chấn lớp dao, thùng loa bằng nhôm không gian 6061-T được dựng bao quanh những giá khung nhôm 6061-T. Trong khi nhôm luôn luôn là lựa chọn của Magico thì những thùng loa quá đắt được xây dựng và tiếp thị với mức giá hợp lý cho đến khi Magico tạo lập được một cửa hàng trang thiết bị CNC tại San Jose, California.
Khi tôi viết bài đánh giá về M5, tôi có một chút phàn nàn về độ vấp nhẹ cũng như hơi mờ làm che khuất chi tiết mức độ thấp ở âm lượng nhỏ tại thời điểm mà tôi cho là khối lượng và quán tính lớn hơn của những nón loa M5. Tuy nhiên, khi tôi nghe toàn bộ thân nhôm với củ loa được sử dụng lớp ba sợi cacbon bằng công nghệ Nano của Q5, tôi nhận ra rằng mức độ vấp nhẹ của dòng sản phẩm M5 phải đến từ những hộp “nhiễu hơn”. Sự so sánh cạnh nhau đã và vẫn là sự thể hiện kì lạ nhất mà tôi từng chứng kiến về việc làm thế nào mà kĩ thuật và cấu trúc cao cấp của thùng loa có thể ảnh hưởng một cách đáng kể đến những chiếc loa kể cả loa hi-fi.
Vậy đâu là những thay đổi về củ loa trong Q5? Một lần nữa, sự khác biệt có thể được nhận ra một cách rõ ràng khi bạn nhìn vào loa: Loa tép với vòm loa bằng beryllium Mbe-1. Magico đòi hỏi ở vòm loa beryllium sự mở rộng tần số lớn hơn, sự xử lý nguồn tốt hơn và độ méo thấp hơn và tôi có thể khẳng định đã đáp ứng một cách hoàn hảo những việc đó. Mbe-1 đã gần đạt đến âm thanh của loa tép dải hơn là những loa tép vòm mà tôi đã từng nghe với một tốc độ, độ phân giải ngoạn mục chính xác gần như tuyệt đối và những băng thông dường như vô hạn.
Tuy nhiên, những gì Magico không nhấn mạnh (giống như tất cả các loa tép beryllium tôi từng nghe) đó là MBe-1 có xu hướng nghe ấm hơn một chút khi chúng được nghe trực tiếp trên đường đồng trục. Bạn sẽ luôn mơ hồ nhận thức được sự hiện diện của Mbe-1 trừ khi bạn hướng chân loa ra ngoài một chút vì thế bạn có thể nghe những loa tép trượt nhẹ ra ngoài đồng trục. Công bằng mà nói, Magico thể hiện cho bạn một cách rõ ràng rằng loa tép được thiết kế để nghe ra ngoài đường thẳng đường đồng trục và tai. Có thể bạn sẽ mất đi một chút sự quyến rũ và gần gũi của dải tần cao nếu như theo hướng dẫn hướng mũi chân vào trong của Magico.
Về phản ứng tần số, đây là lĩnh vực mà rất nhiều những loa hiện đại tốt nhất làm tốt hoặc ít nhất là cũng tốt hơn so với chúng đã làm trước kia. Magico đã thể hiện điều đó rất tuyệt vời và Q5 cũng không là ngoại lệ. Bạn có thể tìm một RTA mà tôi lấy từ vị trí nghe của mình dưới đây.
RTA đo lường các phản ứng của loa trong phòng. Như bạn có thể thấy, Magico Q5 cực kì đẹp đẽ trong không gian khá nhỏ của tôi, giữ ở mức một cặp dB hoặc trong khoảng 20Hz đến 20kHz.
Với tư cách là một audiophile, tôi luôn tìm kiếm một chiếc loa mà có tốc độ, độ méo thấp, độ phân giải cao, rõ nét, tính chân thực cực cao mà không có sự hạn chế về việc lệch khỏi trục làm giảm các dải động, không có sự hạn chế của âm bass, hình ảnh không quá mỏng,…Và Q5 đã làm được tất cả những điều đó.
Âm thanh của nó ra sao? Giống như bất kì cái gì được mở qua chúng (hay bất kì chiếc ampli, pre-ampli hay nguồn nào được kết nối). Nó gần như trở thành một máy biến năng chân thực với đầy đủ dải tần chất lượng cao, tốt hơn bất kì chiếc loa nào mà tôi đã từng nghe trước đây. Nhưng nếu bạn muốn biết chúng nghe như thế nào với những bản thu âm tuyệt vời thì tôi có thể trả lời bạn một cách chắc chắn rằng: Chúng nghe chân thực như thể chúng sẽ đánh cắp hơi thở của bạn.
Không có bất kì chiếc loa nào mà tôi từng sở hữu, kể cả M5, lại có thể tái tạo tiếng piano giống như tiếng piano Bösendorfer trong đĩa nhạc Nova bản xô nát piano đầu tiên của Paul Dessau với sự chân thực từ đầu đến cuối với sự kết hợp không hạn chế của dải tốc độ với sự chắc chắn mà tinh tế như thể nhạc cụ đang ở ngay trước mặt bạn. Mọi sắc thái cảm hứng của người nghệ sĩ piano, mọi khía cạnh hoạt động của cây đàn, mỗi chất lượng của cao độ, âm sắc, cường độ và thời gian mà bạn nghe trong cuộc sống đều được tái hiện lại một cách chân thực, rõ nét khiến cho rất nhiều các loa động nhiều dải khác nghe có vẻ hơi phô và không rõ ràng.
Một trong những điều không thể không nói đó chính là một từ để miêu tả về âm bass của Q5. Từ đó chính là “tuyệt vời”. Đúng vậy, nếu như tôi được lựa chọn một điều đặc biệt nhất về chiếc loa này thì đó chính là phản ứng âm bass của nó. Một trong những điều đầu tiên mà tôi chú ý về Q5 chính là khả năng bất ngờ trong việc tái tạo những âm sắc rất sâu của nhạc cụ. Chúng tôi thường không được lắng nghe những cao độ thấp đó vì thế mà tôi thực sự bất ngờ khi nghe những quãng âm đó được thực sự cất lên. Tiếng guitar bass trong đoạn đầu bài hát “Take Me to the River” Tina Weymouth hay tiếng piano sấm của Andrei Gavrilov trong bản “Quasi una sonata” và nhận ra rằng những nốt nhạc đó có cao độ thấp hơn rất nhiều so với chúng tôi đã nghĩ trước đây. Một lần nữa tôi lại có kinh nghiệm với những nhạc cụ bass và Q5. Những định nghĩa về bass là rất rõ ràng và độ động chân thật như thể độ phân giải mà chúng ta mong đợi được nghe thấy trong những âm tần trung bằng cách nào đó đã hoán đổi vài quãng tám vào bass. Hay nói cách khác, toàn bộ dải âm từ dưới 20Hz cho đến 2kHz đều được tái tạo bởi một củ loa đơn với cùng khả năng phân giải, tốc độ truyền tải, độ động, sự trung lập của âm sắc hay sự rõ nét của các nguồn trong mỗi độ cao giọng.
Tôi vốn là kiểu người nghe “trung thành với băng gốc”. Đối với tôi, độ trung thực cao có nghĩa là sự chính xác ở nguồn. Vào những tuổi đôi mươi, tôi đã từng mơ về chiếc loa giống như Q5 nhưng chẳng có thứ gì giống như vậy cho đến tận ngày nay. Giờ đây tôi đã tìm được chiếc loa mà làm được những gì tôi thích.
Thông số kỹ thuật
Kiểu: Loa đứng đặt sàn
Tweeter:1 x 2.54cm
Midrange: 1 x 15.24cm
Midbass: 1 x 22,86 cm
Bass: 2 x 22.86cm
Độ nhạy: 86dB
Trở kháng: 4 Ohms
Tần số đáp ứng: 18 Hz – 50 kHz
Công suất amply đề nghị: 50W trở lên
Kích thước (W x H x D): 299,7 x 1.193,8 x 495,3 mm
Cân nặng: 190,50 kg
Các bạn có thể tham khảo các sản phẩm khác tại đây
Lựa chọn loa sàn đứng trong phạm vi 100 triệu
Anh Phương Tạp chí Hifi