Băng VHS, băng cối 1/2 inch hay băng cassette, tất cả đều có chung một tên gọi là “băng từ”, và thực tế cho thấy lịch sử của phương tiện lưu trữ này đã có từ rất lâu.
Các thiết bị lưu trữ âm thanh có rãnh, chẳng hạn như ống trụ phonograph hay đĩa tròn gramophone cùng những phương tiện tương tự, đã mở đầu cho ngành công nghiệp thu âm và là hình thức lưu trữ âm thanh chủ yếu cho đến tận Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, rất lâu trở về trước, một loạt nghiên cứu và phát minh đã xuất hiện, đặt nên móng cho sự ra đời cũng như phổ biến của chiếc băng từ mà chúng ta biết đến ngày nay.
Công nghệ thu âm trên dải băng đã xuất hiện từ rất sớm, vào năm 1898, do một kỹ sư người Đan Mạch tên là Valdemar Poulsen (thầy của Peter L. Jensen – người phát minh ra cặp loa hoàn chỉnh đầu tiên trên thế giới). Những nỗ lực của ông đã dẫn đến sự ra đời của Telegraphone – một thiết bị có khả năng thu lại tín hiệu trên một cuộn dây thép bằng cách dẫn tín hiệu đó đi qua một đầu thu. Đầu thu này có nhiệm vụ lưu trữ thông tin dạng từ hóa trên cuộn dây. Nếu được dẫn tới đầu phát có khả năng chuyển từ tính trên dây thành tín hiệu điện, bản thu này có thể tái tạo lại thành âm thanh. Thế rồi bằng kim loại xuất hiện, và tiếp đến là hệ thống thu băng Marconi-Stille vào thập niên 30 của thế kỷ trước.
Băng từ sơ khai dưới dạng một lớp film nhựa mỏng có phủ lớp hạt từ tính, và cắt thành dải dài đã được phát minh vào năm 1928. Thế nhưng phải đến thập niên 40, chúng mới bắt đầu được phổ biến rộng rãi. Có được điều này một phần cũng là nhờ sự xuất hiện của hệ thống Magnetophon do thương hiệu Đức AEG sáng chế. Nguyên tắc cơ bản của kỹ thuật thu âm băng từ cũng giống như nhiều kỹ thuật thu âm khác trước đó, thế nhưng điểm đột phá thực sự của hệ thống Magnetophon là việc kết hợp giữa băng film nhựa với công nghệ AC bias, cho phép đem lại chất lượng âm thanh vượt trội cũng như khả năng dễ cắt, dính băng ngoài vào phục vụ cho mục đích chỉnh sửa. AEG giới thiệu K1, máy thu âm băng từ chất lượng cao đầu tiên trên thế giới vào năm 1935 tại Berlin Radio Show.
Sau Thế chiến thứ hai, công nghệ Magnetophon đã được Jack Mullin, một quân nhân thuộc binh chủng thông tin của quân đội Mỹ thu mua lại và đem về nước. Không chỉ công nghệ, Mullin cũng tranh thủ mua thêm hai máy thu âm loại này. Dựa vào những thứ có sẵn trong tay, ông đã cải tiến lại những cỗ máy này và nhờ vào đó, cả một ngành công nghiệp mới đã được hình thành nhờ vào việc áp dụng rộng rãi công nghệ thu âm băng từ cho các nhu cầu dân dụng phổ biến.
Một trong những điểm tiện lợi nhất của băng film dải nhựa là nó rất dễ sản xuất với độ rộng khác nhau, có thể phủ nhiều loại hạt oxit từ tính khác nhau, chạy với nhiều tốc độ khác nhau và chia nhỏ được ra thành nhiều track nhỏ. Ưu điểm cuối cùng rất đáng được giải thích kỹ hơn. Bản thân băng từ không thể tự chia ra thành các track khác nhau. Toàn bộ chiều rộng của băng được phủ lớp hạt oxit từ tính một cách đồng đều. Khi làm như vậy, một cuộn băng sẽ có chứa một kênh thông tin thu trên toàn bộ chiều rộng của băng, hoặc hai kênh thu song song với nhau, một kênh ở ngay cạnh kênh còn lại và chiếm một nửa chiều rộng của băng, hoặc ba kênh với mỗi kênh chiếm 1/3 chiều rộng, thậm chí lên đến 24 kênh, mỗi kênh là 1/24 chiều rộng khổ băng.
Chính việc thiết lập các đầu từ tính trên máy chạy băng sẽ quyết định việc băng từ được sử dụng như thế nào. Chẳng hạn, băng từ 1/4 inch từng được sử dụng rộng rãi vào những năm 1950 – 1960, chúng ta hay gọi băng này là băng cối. Những cuộn băng đơn kênh thường sẽ có chứa hai track (còn gọi là bằng half-track mono) trong khi băng hai kênh sẽ có tổng cộng là bốn track (băng quarter-track stereo). Sau khi chơi hết một mặt, băng sẽ được lật lại để chơi tiếp mặt bên kia.
Cùng một cuộn băng 1/4 inch, chúng ta có thể sử dụng nó để chạy trên các máy thu băng bốn track như TEAC A3340S. Điều này cho phép các nghệ sĩ biểu diễn tạo ra các bản thu multitrack chất lượng cao ngay tại nhà vào những năm 1970. Và để làm điều đó, chúng ta chỉ cần một cuôn băng với máy chạy cùng cách thiết lập các đầu từ tính khác nhau.
Đối với các nhà nghiên cứu và những người sưu tập, mặc dù băng từ có thể sử dụng theo nhiều cách khác nhau, điều này vô tình dẫn đến một thách thức khá lớn: nếu thông tin về băng không rõ ràng, rất khó để có thể biết được băng đã thu bao nhiêu kênh trên bề mặt, nó cần được chạy với tốc độ nào, hệ thống chạy băng cần được đặt thiết lập EQ ra sao, nếu như công nghệ chống nhiễu cho băng khi thu được áp dụng thì quá trình chạy băng sẽ cần sử dụng công nghệ nào, hay thậm chí chẳng thể biết chắc được băng đó có chứa những tư liệu nào.
(Hết phần 1)
Bạn có thể xem thêm phần khác tại đây
Muôn mặt băng từ – lịch sử một phương tiện lưu trữ âm thanh (phần 2)
Muôn mặt băng từ – lịch sử một phương tiện lưu trữ âm thanh (phần 3)
Các bạn có thể tham khảo các sản phẩm khác tại đây
Những bộ cơ mâm đĩa than thường gặp hiện nay
Nguyễn Hào