Là chiếc ampli cơ bản nhất trong loạt ampli class A của dòng, Pass Labs XA30.8 có thể xem như là một trong những stereo power-amp tốt nhất mà Pass Labs từng cho ra mắt.
Năm 2014, Pass Labs chính thức cho ra mắt series ampli .8 để thay thế cho dòng ampli .6 ra mắt từ 2006. Có thể thấy, về cơ bản dòng .8 không sở hữu thiết kế đột phá, mới mẻ so với thế hệ trước. Thay vào đó, nó cố gắng làm tốt hơn những gì mà dòng .6 đã từng làm trước đó, thể hiện qua việc đem đến công suất mạnh hơn, ít tầng linh kiện hơn, độ méo tiếng thấp hơn và lượng hồi tiếp thấp hơn bao giờ hết. Những điều này đã trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng trình diễn của chúng, khiến nhiều người tin rằng các nâng cấp của Pass Labs cho dòng .8 là điều đúng đắn.
Ở thời điểm ra mắt, dòng ampli này có 5 ampli class A và 4 ampli class AB. 4 trong số này là là ampli stereo trong khi số còn lại là monoblock. Vẫn như mọi khi, các số đầu tiên ở trước cụm .8 thể hiện mức công suất của ampli. XA30.8 là ampli sơ cấp trong loạt ampli stereo, dù không phải là mạnh nhất nhưng vẫn được đầu tư khá chỉn chu, đúng với tinh thần sản phẩm do Pass Labs làm ra.
Thiết kế
Hầu hết các ampli trong dòng .8 đều to, nặng hơn so với những ampli tiền nhiệm (ngoại trừ những chiếc lớn nhất là có cùng khối lượng vì vốn dĩ chúng đã đủ lớn để có thể được xử lý giống như ở các phiên bản .8). Ampli stereo XA30.8 nặng tới 42kg trong khi XA30.5 chỉ dừng lại ở con số 34kg. Phần tản nhiệt ở hai bên thân máy được làm lớn hơn nhiều để tăng lượng bias dòng so với thế hệ cũ. Bên cạnh đó, các ampli class A cũng tiêu hao điện năng rất nhiều ngay cả khi hoạt động ở chế độ tĩnh. Trong trường hợp của XA30.8, lượng điện năng tiêu thụ này lên đến 375 watt, do đó tản nhiệt lớn để xả nhiệt hiệu quả là điều rất cần thiết. Trong khi đó, điện năng tiêu thụ của XA30.5 chỉ là 200 watt. Như vậy, có thể thấy lượng bias dòng của thế hệ mới đã tăng lên tới 40%. Ngoài ra, thân máy cũng được làm to hơn để có thể chứa được mạch nguồn lớn hơn. Kích thước hiện tại của XA30.8 là 48.25cm x 54cm x 19.05cm.
Thiết kế mạch cũng được áp dụng một số thay đổi nhỏ. Trở kháng đầu vào và mạch bật máy là hai trong số đó. Các thông số cơ bản của XA30.8 nhìn chung khá giống với thế hệ trước. Ampli có công suất 30 watt/kênh ở trở kháng 8 Ohm và tăng lên gấp đôi với trở kháng 4 Ohm. Vượt qua ngưỡng này, nó sẽ chuyển từ chế độ class A sang class AB. Độ méo hài tổng 1% xuất hiện khi tín hiệu bắt đầu xén ngọn, tức vượt quá 100 watt mỗi kênh.
Điểm khác biệt nữa ở XA30.8, ngoài việc linh kiện khuếch đại ở mỗi kênh sẽ nhiều hơn ngay cả khi công suất đầu ra thấp hơn, là phạm vi ampli hoạt động ở chế độ class A single-ended. Ở thế hệ trước, con số này rơi vào khoảng 1 Watt công suất đầu ra đầu tiên. Đối với XA30.8, phạm vi này tiếp tục được mở rộng, với dòng bias liên tục cho class A được tăng lên tới 40%.
Thông thường, người dùng sẽ phải lựa chọn giữa một trong hai thiết kế ampli, hoặc single-ended, hoặc push-pull. Thiết kế mạch thông minh của XA30.8 cho phép nó hoạt động giống như một ampli class A single-ended với mức công suất đầu ra thấp. Nói đến thiết kế mạch, tất cả ampli của Pass Labs đều là ampli mạch analog truyền thống. Toàn bộ đều hoạt động dựa vào transistor, không có bất cứ dấu vết nào của IC trên thiết bị của họ. Trên thực tế, ngoại trừ mạch nguồn và mạch chỉnh bias, ta còn không thể tìm thấy tụ điện ở các vị trí khác.
Trong trường hợp người dùng cần công suất lớn hơn, Pass Labs cũng sản xuất các ampli class AB tương ứng. Đối với trường hợp của XA30.8, chiếc ampli tương ứng với nó X150.8, với thiết kế bên trong rất giống, chỉ khác ở chỗ chuyển từ class A sang class AB ở công suất đầu ra 12 watt thay vì 30 watt ở trở kháng 8 Ohm, nhưng lại có khả năng tạo ra điện áp và xoay dòng lớn hơn. Vì vậy X150.8 có thể chạy lên tới 150 watt/kênh thay vì chỉ dừng lại ở mức 100 watt. Lúc này, thứ duy nhất người dùng cần phải lựa chọn là công suất class A nhiều hơn hay công suất đầu ra lớn hơn mà thôi.
Phần mặt sau của cỗ máy rấ giống với phiên bản tiền nhiệm XA30.5, nhưng bổ sung thêm vài chi tiết khá đáng giá. Bộ cọc loa cỡ lớn ở sau máy giờ đã có thể dùng được với cả dây loa bắp chuối bên cạnh dây càng cua. Hai tay cầm rất lớn ở mặt sau cũng giúp người nghe vận chuyển chiếc ampli này một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, những ampli cỡ lớn hơn sẽ đòi hỏi phải có hai người để di chuyển đi. Chất lượng hoàn thiện của thân máy, phần mặt trước và đồng hồ VU nền xanh rất hoàn hảo, xứng đáng với mức giá hơn 6500 đô la của XA30.8.
Trải nghiệm
Khi phối ghép power-amp XA30.8 với preamp Audia Flight FLS1 cùng cặp loa AudioSolutions Figaro L, bất cứ người nghe nào cũng sẽ hứng thú trước kết quả này. So sánh XA30.8 với các power-amp như như XPA-2 Gen3 của Emotiva hay NewClear NC1000L, âm trường lớn hơn khá nhiều cả về chiều rộng cũng như chiều cao. Các bản thu chất lượng tốt với ấn tượng rõ ràng về không gian trình diễn sẽ thể hiện rất rõ điều này. Hai trong số đó là bản Rememberances của Jon Faddis với chất lượng 24-bit/96kHz và bản Random Access Memories của Daft Punk ở chất lượng 24-bit/88.2kHz. Cả hai bản nhạc này đều thể hiện âm trường rất lớn, trong khi kích thước, hình dáng và sự hiện diện của âm hình đều được thể hiện một cách thực tế.
Một trong những điểm mà XA30.8 có thể làm tốt hơn các phiên bản cũ chính là các dải trung và cao. Ở XA30.8, ta có thể cảm thấy sự thanh thoát, mượt mà ở trung-cao giống như sử dụng ampli đèn nhưng hoàn toàn thiếu đi các méo tiếng dẫn đến hiện tượng lên màu âm thanh. Bất cứ ai yêu thích ampli đèn cũng sẽ thấy rằng XA30.8 sở hữu một chất âm với những ưu điểm thường có ở ampli đèn trong khi vắng đi các nhược điểm thường gặp.
Cải thiện tiếp theo ở XA30.8 so với XA30.5 chính là các dải trầm. Đối với XA30.5, có thể thấy dù công suất ngang bằng nhưng vì lượng transistor đầu ra ít hơn nên vẫn để lại những ảnh hưởng nhất định. Các dải bass tức thời vẫn còn thiếu sự dứt khoát, đặc biệt phải gồng hết sức khi nghe ở mức âm lượng lớn với các bản nhạc điện tử, khiến kim đồng hồ VU dao động một chút. Đối với XA30.8, vấn đề này được xử lý triệt để hơn. Khả năng trình diễn dải trầm tốt hơn nhiều, với các âm thanh tức thời trở nên sắc bén, có lực hơn. Tất nhiên chỉ với 30 watt đầu ra, đôi lúc người nghe vẫn cảm thấy có chút thiếu năng lượng. Trong những trường hợp như vậy, một cặp monoblock XA60.8 có thể xử lý vấn đề tốt hơn.
Kết luận
Pass Labs XA30.8 chắc chắn là một chiếc ampli đắt đỏ. Con số 30 watt có thể không nhiều về mặt lý thuyết nhưng những gì nó làm được chắc chắn sẽ nhiều hơn thế. Nếu người nghe sở hữu một cặp loa có độ nhạy tương đối cao và hệ thống đã có sẵn loa subwoofer chủ động, ampli XA30.8 sẽ là một lựa chọn khá hợp lý. Tất nhiên, những thể loại mạnh, cực kỳ ồn ào sẽ đòi hỏi những ampli mạnh hơn nhưng nhìn chung, XA30.8 có thể đáp ứng tốt nhu cầu của phần lớn người nghe nhạc hiện nay.
Nguyễn Hào
Các bạn có thể tham khảo các sản phẩm khác tại đây
Thu âm trực tiếp – Kỹ thuật đỉnh cao dành cho đĩa than cao cấp